Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2010

On Nominated Banks Position in Case of Fraud

This article can also be viewed on lcviews.com - Single Window Question)

Question from Nguyen Huu Duc


A document - “inspection certificate” – for example, issued by the buyer's representative is often seen amongst documents required by the LC for aqua-product. This document can be created by the beneficiary.

Negotiating bank may negotiate LC without knowing that the document is false until it is informed by the issuing bank of the fraud. Like the Santander case, the bank negotiating false documents has to cope with the situation of receiving no reimbursement from the issuing bank.

I know once again after many fraud cases like Banco Santander case, like UCP 500, UCP 600 still has no articles dealing with frauds.

I would appreciate if LC specialists like T.O Lee, Jia Hao, Kim Christensen... have their opinions on this matter.

Best regards,
Nguyen Huu Duc

Answer from T.O Lee – FAE, MCIArb, MTTD


Position : Consultant
Contact : experts@tolee.com

I think this query on the Santander case risk for the nominated bank is outdated after 1 July 2007 when the UCP 600 takes over.

Now the nominated bank's risks are covered adequately under UCP 600 sub-articles 7 (c), 8 (c) &12 (b).

Having said that, we have to realize that these sub-articles only convey the well wishes of the UCP 600 drafting group. We still need to see the future court cases to ensure whether the above mentioned sub-articles are in fact workable or not in the courts of law globally. For USA practising UCC Article 5, there is no such problem. UK court decisionsin the future is what we should be looking forth.

However, I do see from the documentary credits that were sent by my retainer clients for comments that in some DCs subject to UCP 600, the above mentioned sub-articles are either modified or deleted to remove the risk of the issuing bank that pasts the buck back to the nominated bank. UCP 600 provides a default rule and it is up to the parties to determine their own fate where they have the freedom of contract.

As a consultant, I am more practical, compared with some scholars who are looking for best practices and a perfect trading world, do go to the kitchen and find out that the DC operation is like any commercial activities where the law of the jungle rules. So my concern is not UCP 600, contracts, legislations but rather whether you are a rabbit or a tiger. The tiger always makes the rules for the jungle, whether the rabbit likes it or not.

My job as a consultant is to help the rabbits to hide or run away from the tigers. A tiger does not need a consultant.

Curiously I was born in the year of the rabbit!

Best regards,
T.O.



Answer from Jia Hao

Position : Trade Finance Product Manager in Bank of China, Frankfurt Branch
Contact : yzih99@yahoo.com.cn

Regarding the query, I would like to say some points below:

  1. Because banks are only responsible to check documents’ compliance from their appearance, they can rarely find and point out documents are forged or fraudulent. However, it does not mean banks can disregard any documents which are apparently forged under international banking practice, or have been notified by others to be forged or fraudulent, because the implicit obligation of banks is to pay against ‘genuine’ conforming documents. So in the query the negotiating bank should clearly prove that it does not know the forgery without notice under international banking practice.

  1. The bank in the query should do under the authorization of the issuing bank. Otherwise it will do at its own risk. This point has been discussed deeply in the Santander case. UCP600 adds one more authorization from the issuing bank, that is, the nominated bank is authorised to prepay or purchase its acceptance or deferred payment undertaking, which is catering to the increasing financing business in order to accommodate international commerce and trade. Hence, the position of a nominated bank is crucial. Without being such position, a bank may not get better title than the beneficiary when it has paid against forged documents even in good faith without knowledgement.
  1. Therefore, in a nutshell, the bank in the query should check the documents under international documentary credit practice without knowledge of any fraud or fraudulent aspects involved, should be the nominated bank mentioned in the credit, and should do under the authorization of the issuing bank under international documentary credit practice. If so, the bank can be immune of fraud defense, namely it can be reimbursed from the issuing bank when it has already paid even in case a definite fraud has been clearly established.
Best regards,
Jia Hao






Answer from Kim Christensen

Position : TF Business & Product Specialist, Nordea
Contact : kim.christensen@nordea.com

The issue of fraud is considered a matter for local law. Therefore UCP does not deal with fraud.

That being said my view is as follows:

In fraud cases there is a risk that one of the involved banks will face a loss. The basic question one should ask is, who (which bank/part) should bear that risk.

I think it should be the issuing bank/applicant (mainly the applicant) that bears the risk of loss in fraud cases. This means that a nominated bank that has followed its nomination should be protected against fraud (if having acted in "good faith" - another concept not dealt with in the UCP).

As mentioned in the question there have been cases - like the Santander Case - where this has not been the result. My view is that this is because the UCP 500 apparently was not drafted strong enough on this point (many will no doubt disagree on this).

However in the UCP 600 considerable effort has been done in order to avoid cases like the Santander case - e.g. the inclusion of sub-article 12(b).

Best regards,
Kim Christensen

Is a Draft a Document?

(This article can also be viewed on lcviews.com - Single Window Question)
Question from Nguyen Huu Duc

According to the opinions of ICC Banking Commission and of LC experts like T.O Lee (T.O Lee Consultants Ltd), Heinz Hertl (Bank of Austria AG), Laurence A.J. Bacon (Ireland) ... drafts are not part of the documents required under the credit by the applicant, and accordingly discrepancies if any on the drafts shall not constitute the good reason for rejection of the documents. This view is also received the support from judges like David Steel of the English Commercial Court in connection with the CMB vs. CIC case.

I am on the side of the ICC Banking Commission and the experts. However, I wonder why in some other court cases, discrepancies on the drafts are still argued if they are really discrepancies and it seems that some other people still believe the issuing bank/applicant may reject the documents if the drafts contain discrepancies.

I will be very grateful if the LC Views' specialists give their opinions on the matter.

Best regards,
Nguyen Huu Duc

Answer from Abdulkader Bazara

Position : Product Manager, Trade Finance, Samba Financial Group
Contact : Abdulkader.Bazara@samba.com

It would be difficult to make a general statement. It depends on the circumstance. I would agree that, in many circumstances, banks may not need to call for drafts but there could also be reasons to do so – examples:

a) beneficiary requires the draft for the purpose of post export finance
b) maturity for payment is to be calculated from the date of a draft.
c) Etc

In any case, if a credit calls for a draft and if a draft is presented, discrepancies similar to the following could be serious and may have adverse legal implications:
  1. Draft amount higher than the LC value / invoice value.
  2. Drawer or drawee on the draft a party other than the party stated in the LC (or the issuing bank).
  3. Wrong endorsement on the draft. Let's say that the draft is endorsed to another legal entity (not the nominated bank or advising) but still presented by the beneficiary along with the documents for payment.
In practice many banks usually ignore discrepanices of the following natures:
  1. draft is missing (sight LCs)
  2. LC number is missing from the draft
  3. draft is not endorsed

Best regards,
Abdulkader Bazara

Responses to Ms. Gang’s query on Red Clause Credit

Chào bạn Gắng,

Hôm qua bạn có hỏi tôi về Red Clause LC rủi ro liên quan đến Red Clause LC mà ngân hàng của bạn đóng vai trò là ngân hàng thông báo. Vì không được trực tiếp xem xét hồ sơ, tôi chỉ có thể trả lời bạn trên cơ sở lý thuyết như sau:
Red Clause LC (hay LC điều khoản đỏ) cho phép người hưởng lợi ứng trước tất cả hoặc một phần tiền hàng trước khi giao hàng từ ngân hàng đại lý được chỉ định (thông thường là ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận). Khi nhận được tiền ứng trước, người hưởng phải có biên nhận và cam kết bằng văn bản sẽ thực hiện xuất trình chứng từ trước khi L/C hết hiệu lực xuất trình. Ngân hàng đại lý thực hiện ứng trước tiền hàng nhưng ngân hàng phát hành LC (NHPH) chịu trách nhiệm. Nếu người bán không xuất trình chứng từ trong thời gian quy định và không hoàn trả tiền ứng trước, NHPH phải hoàn trả cho ngân hàng đại lý số tiền ứng trước cộng với tiền lãi phát sinh. NHPH có quyền truy đòi người mở LC - người chịu mọi rủi ro đối với khoản tiền ứng trước và tiền lãi phát sinh.
Điều khoản cho phép ngân hàng đại lý thực hiện ứng trước tiền hàng trước đây được viết bằng mực đỏ, do vậy, tên LC điều khoản đỏ phát sinh từ tập quán này.
Tôi đã xem bản fax LC mà bạn gửi cho tôi ngày hôm qua, theo đó tại Field 47A quy định cho phép người hưởng ứng trước đến 272.000USD khi xuất trình biên nhân đã ký và cam kết rằng họ sẽ thực hiện giao hàng và xuất trình chứng từ phù hợp với LC trong thời hạn hiệu lực và rằng trong trường hợp họ không thực hiện giao hàng, họ sẽ hoàn trả cho NHPH ngay khi được yêu cầu số tiền ứng trước cùng với số tiền lãi phát sinh từ ngày thanh toán điều khoản đỏ cho đến khi NHPH nhận được tiền hoàn trả.
Về lý thuyết, nếu ngân hàng của bạn là ngân hàng được chỉ định thực hiện ứng trước tiền hàng cho người hưởng đổi lấy giấy biên nhận và cam kết nêu trên; ngân hàng của bạn có quyền yêu cầu NHPH hoàn trả tiền ứng trước cộng với tiền lãi phát sinh trong trường hợp người hưởng không xuất trình chứng từ trong thời hạn hiệu lực xuất trình của LC và không hoàn trả tiền ứng trước. Nếu đúng với tinh thần trên đây, tôi cho rằng ngân hàng của bạn cần phải cân nhắc thận trọng về việc có nên thực hiện ứng trước cho người hưởng hay không bởi mức độ rủi ro là khá cao.
Hôm qua bạn cũng như anh V. có trao đổi với tôi rằng NHPH (chứ không phải ngân hàng của bạn) thực hiện ứng trước tiền hàng cho người hưởng khi họ xuất trình giấy biên nhận cùng với cam kết nêu trên. Nếu đúng như vậy, tôi cho rằng trong trường hợp này ngân hàng của bạn chỉ đóng vai trò là ngân hàng trung gian chuyển chứng từ cho NHPH mà thôi. Tôi nghĩ rằng ngân hàng của bạn sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào trong trường hợp người bán không thực hiện giao hàng và xuất trình chứng từ trong thời hạn hiệu lực của LC hoặc không hoàn trả lại số tiền được ứng trước bởi đây là LC điều khoản đỏ không có bảo đảm, tức là ngân hàng của bạn không có cam kết với NHPH về việc sẽ trả thay trong trường hợp người hưởng không hoàn trả tiền hoặc các nội dung tương tự.
Xin hãy thông tin cho tôi biết những diễn biến tiếp theo liên quan đến giao dịch LC điều khoản đỏ nêu trên (nếu có thể).
Chúc một ngày làm việc vui vẻ, hiệu quả.
Thân chào,
Nguyễn Hữu Đức

Responses to Mr Nguyen Anh Trung ’s query on late shipment penalty

Chào anh Trung,

Tôi xin lỗi vì hôm nay mới mở mail. Cám ơn anh đã gửi câu hỏi khá hay :

Về câu hỏi có cách gì phạt tiền giao hàng chậm không nếu trước đó trong LC không có quy định này, tôi xin trao đổi với anh như sau :

Việc phạt giao hàng trễ (nếu có) thông thường được quy định trong hợp đồng được ký giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu, chứ không thể hiện trong LC. Do vậy, thông thường hai bên sẽ căn cứ vào hợp đồng để giải quyết. Tuy nhiên, thực tế vẫn có trường hợp tiền phạt giao hàng trễ được khấu trừ vào tiền hàng phải trả theo LC. Chẳng hạn, khi chứng từ xuất trình có sai sót (v/d: giao hàng trễ), ngân hàng phát hành LC thường thông báo từ chối chứng từ và liên hệ với người mở LC (nhà nhập khẩu) để xin ý kiến về việc chấp nhận sai sót. Trong một số tình huống cụ thể, nhà nhập khẩu có thể lợi dụng sai sót chứng từ để thương lượng giảm giá với người hưởng lợi LC (nhà xuất khẩu) với lý do, chẳng hạn, việc giao hàng trễ đã gây tổn thất tài chính cho nhà nhập khẩu (trái vụ hoặc làm chậm tiến độ thi công), do vậy, nếu nhà xuất khẩu đồng ý giảm giá thì nhà nhập khẩu mới chấp nhận sai sót chứng từ và đồng ý thanh toán LC.

Trong hầu hết trường hợp, nhất là khi không thể bán hàng hoá cho người khác hoặc đưa hàng trở về nước, nhà xuất khẩu đành phải chấp nhận giảm giá để được trả tiền. Nhà xuất khẩu có thể xác nhận việc chấp nhận giảm giá thông qua ngân hàng xuất trình, cho phép ngân hàng phát hành khấu trừ trực tiếp vào tiền hàng phải trả cho nhà xuất khẩu.

Về câu hỏi thứ hai liên quan đến tài liệu ISBP, tôi xin trả lời anh như sau: Để phù hợp với UCP 600, Uỷ ban Ngân hàng ICC đã sửa đổi ISBP 645 thành ISBP 681. Tuy nhiên, hiện nay tôi chỉ có ISBP 645 bằng song ngữ, còn ISBP 681 chỉ có phiên bản tiếng Anh. Ở Đà Nẵng chưa thấy có bán tài liệu này, khi nào có dịp đi Sài gòn hoặc Hà Nội anh thử tìm xem.

Tôi hứa khi có dịp đi công tác Hà Nội hay Sài Gòn, nếu gặp, sẽ mua tặng anh một bản song ngữ ISBP 681.

Hi vọng phần trả lời của tôi có thể giúp anh ít nhiều.

Chào anh,

Discrepant Documents Revisited

Lại bàn về vấn đề xử lý

các chứng từ bất hợp lệ trong phương thức LC

Nguyễn Hữu Đức
Sau bài viết “Xử lý các chứng từ bất hợp lệ trong phương thức tín dụng chứng từ” đăng Tạp chí Ngân hàng và Thông tin Vietcombank số 11/2003 có thêm hai tác giả tham gia viết bài bàn về vấn đề này với những quan điểm trái ngược nhau. Điều này cho thấy rằng từng ngân hàng trong cộng đồng ngân hàng ở Việt Nam cũng đã thực hành xử lý các chứng từ bất hợp lệ theo những cách khác nhau. Trên phạm vi quốc tế vấn đề này cũng đã thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia ngân hàng ICC và những người thực hành thanh toán quốc tế tại các ngân hàng lớn ở khắp các châu lục. Những cuộc tranh chấp gần đây liên quan đến việc xử lý chứng từ bất hợp lệ cùng với những ý kiến trái ngược nhau của các chuyên gia ngân hàng về vấn đề này đã gây được sự chú ý của các chuyên gia soạn thảo UCP trong việc sửa đổi Điều 14 UCP 500 cho phù hợp. Trong khi chờ đợi sự ra đời của UCP 600, việc vận dụng UCP 500 một cách lệch lạc của một số ngân hàng trong thời gian gần đây chắc chắn đã gây ít nhiều khó chịu trong cộng đồng các ngân hàng tuân thủ theo quy tắc thống nhất về tín dụng chứng từ.
Trong bài viết này, chúng tôi không có chủ ý chứng minh quan điểm của mình trong bài viết trước đây là đúng mà chỉ nhằm mục đích cung cấp thêm cho bạn đọc quan tâm, những người thực hành thanh toán LC một số ý kiến về các giải pháp xử lý chứng từ bất hợp lệ được các chuyên gia ngân hàng quốc tế đề xuất với mong muốn rằng chúng ta sẽ có thêm cơ sở tham khảo để đưa ra quyết định xử lý chứng từ bất hợp lệ vừa phù hợp với UCP 500 vừa đáp ứng được yêu cầu của thực tế.
Giải pháp thăm dò ý kiến người yêu cầu mở LC (approaching the applicant)
Điều 14 (c) quy định nếu ngân hàng phát hành (NHPH) xác định rõ ràng các chứng từ thể hiện trên bề mặt của chúng không phù hợp với các điều khoản và điều kiện của LC, ngân hàng này có quyền theo ý kiến riêng của mình tiếp xúc với người yêu cầu mở LC (nhà nhập khẩu) về việc chấp nhận các bất hợp lệ.
Giải pháp thăm dò ý kiến của người yêu cầu mở LC hoàn toàn không phải là mới lạ. Về nguyên tắc, NHPH có quyền từ chối chứng từ bất hợp lệ mà không cần phải tham khảo ý kiến của người yêu cầu mở LC nhưng trên thực tế hầu như các ngân hàng đều thăm dò ý kiến người yêu cầu mở LC. Tuy nhiên có sự khác nhau về trình tự xử lý giữa các ngân hàng : có ngân hàng thực hiện thông báo từ chối rồi mới tham khảo ý kiến của người yêu cầu mở LC, trong khi có ngân hàng tham khảo ý kiến của người yêu cầu mở LC về việc chấp nhận các điểm bất hợp lệ trước khi chính thức quyết định từ chối hay chấp nhận chứng từ.
Thông báo từ chối mà các NHPH gửi cho người xuất trình trước khi thăm dò ý kiến người yêu cầu mở LC về việc chấp nhận các điểm bất hợp lệ thường là thông báo từ chôi có điều kiện với nội dung như sau : “Chúng tôi xin thông báo chứng từ xuất trình có những điểm bất hợp lệ sau: …. Chúng tôi từ chối chứng từ theo Điều 14 UCP 500. Chúng tôi đang liên hệ với người mở LC về việc chấp nhận các điểm bất hợp lệ. Nếu người yêu cầu mở LC chấp nhận các điểm bất hợp lệ trước khi chúng tôi nhận được chỉ thị khác của quý hàng, chúng tôi sẽ giao chứng từ cho người mở LC và thực hiện thanh toán. Các chứng từ đang được giữ lại tuỳ sự định đoạt của quý hàng” (Please be advised that the following discrepancies were found” … We refuse the documents according to Article 14 UCP 500. Should the discrepancies be accepted by the applicant, we shall release the documents without further notice to you unless your instructions to the contrary are received prior to our payment. Documents held at your risks and for your disposal).
Trong bài viết đã dẫn, chúng tôi đã dẫn chứng trường hợp tranh chấp giữaCredit Industriel et Commerciale (CIC) và China Merchants Bank (CMB) liên quan đến thông báo từ chối có nội dung tương tự như trên của CMB. Sau khi gửi thông báo từ chối cho CIC, CMB liên hệ với người yêu cầu mở LC về việc chấp nhận các điểm bất hợp lệ và người người yêu cầu mở LC chấp nhận, do vậy, CMB đã giao chứng từ cho người mở LC.
Quan toà nước Anh xét xử vụ này là Stell đã xử CMB thua kiện với lý do CMB đã không tuân thủ theo Điều 14 (d) (ii) UCP 500. Lẽ ra CMB phải giữ các chứng từ bấy hợp lệ tuỳ quyền định đoạt của CIC hoặc phải gửi trả lại cho CIC. Quan toà Steel cho rằng : “… Nếu NHPH giao các chứng từ cho người mở LC mà không có sự đồng ý trước của người thụ hưởng thì NHPH đã dại dột vì đã không giữ chứng từ chờ sự định đoạt của người xuất trình.”
Chúng tôi xin dẫn thêm một vụ tranh chấp khác xảy ra gần đây giữa Voest – Alpine Trading USA Corp. và Bank of China (BOC). BOC gửi thông báo cho người xuất trình với nội dung được diễn đạt như sau : “Khi kiểm tra các chứng từ nêu trên, chúng tôi phát hiện điểm bất hợp lệ sau đây: …. Chúng tôi đang liên hệ với người mở LC về việc chấp nhận bất hợp lệ này. Chúng tôi đang giữ các chứng từ chờ sự định đoạt của quý hàng với mọi rủi ro do quý hàng hgánh chịu” (Upon checking a.m documents, we notice the following discrepancy … We are contacting the applicant for acceptance of the relative discrepancy. Holding documents at your risks and disposal).
Toà Phúc thẩm Mỹ quyết định rằng thông báo từ chối trên là không đầy đủ, không thấy có từ nào diễn đạt việc từ chối chứng từ và (ngược lại) trong lời tuyên bố các chứng từ đã được giữ lại chờ sự định đoạt của người xuất trình lại có thêm các từ phụ làm hạn chế lời tuyên bố (contain extra words qualifying the statement).
Cả hai thông báo từ chối trên cho thấy các ngân hàng đều muốn áp dụng triệt để giải pháp “thăm dò ý kiến người mở LC” mà Điều 14 (c) cho phép. Tuy nhiên, cái cách áp dụng của hai ngân hàng này đã bị các quan toà cho là không tuân thủ theo Điều 14 (d) (ii) UCP 500 - phải nêu tất cả những điểm bất hợp lệ mà theo đó ngân hàng từ chối các chứng từ và cũng phải ghi rõ ngân hàng có đang giữ lại toàn bộ các chuqứng từ hay không để chờ sự định đoạt của người xuất trình hoặc đang gửi trả chứng từ lại cho người xuất trình. Cách từ chối của CMB có nêu quyền định đoạt chứng từ của người xuất trình nhưng quyết định định đoạt đó bị hạn chế trong trường hợp người yêu cầu mở LC chấp nhận các bất hợp lệ. Còn BOC thì không đưa ra quyết định từ chối dứt khoát mà chỉ thông báo những điểm bất hợp lệ của các chứng từ, còn từ chối hay không thì do người yêu cầu mở LC quyết định cuối cùng.
Mặc dù biết là dài dòng nhưng chúng tôi vẫn cố ý trích lại nguyên văn bằng tiếng Anh nội dung thông báo từ chối nêu trên để các bạn đọc là những người đang thực hành thanh toán quốc tế có thể dễ dàng nhận thấy rằng kiểu thông báo từ chối “có điều kiện” và “thiếu dứt khoát” như trên đều không xa lạ gì và cũng thường được các ngân hàng Việt Nam sử dụng gần như là “những bài mẫu”. Và như đã thấy ,“những bài mẫu này” không phải là không rủi ro.
Từ kinh nghiệm của những trường hợp tranh chấp trên, có thể rút ra kết luận rằng thông báo từ chối phải tuân thủ theo Điều 14 (d) (ii) UCP 500, tức là phải diễn đạt rõ ràng thông điệp từ chối trên cơ sở những điểm bất hợp lệ đã nêu và nêu rõ tình trạng của chứng từ : đang được giữ lại tuỳ sự định đoạt của người xuất trình hoặc đang được gửi trả lại cho người xuất trình. Những nội dung bổ sung khác cho dù được diễn đạt tốt đến mấy đêu không cần thiết và dễ gây nhầm lẫn, thậm chí trái với quy định tại Điều 14 UCP 500 dẫn đến những tranh chấp không đáng có.
Trong bài viết đã dẫn, chúng tôi cũng đã giới thiệu cách xử lý chứng từ bất hợp lệ được một số ngân hàng vận dụng. Cách xử lý này về cơ bản đều dựa theo quy định tại Điều 14 (c) UCP 500, theo đó NHPH có thể theo ý kiến riêng của mình thăm dò ý kiến của người mở LC về việc chấp nhận các bất hợp lệ. Tuy nhiên, việc thăm dò ý kiến của người mở LC được thực hiện trước khi NHPH quyết định có hay không gửi thông báo từ chối dứt khoát cho người xuất trình.
Các thành viên của Uỷ ban Ngân hàng ICC cũng đã quan tâm đến những vướng mắc mà bản thân Điều 14 UCP 500 có thể tạo ra. Do vậy, họ đã đề xuất một quy trình theo trình tự sau : (i) NHPH thực hiện kiểm tra các chứng từ; (ii) NHPH quyết định rằng các điểm bất hợp lệ là không thể sửa chữa được và cần thiết phải từ chối các chứng từ (trừ phi người mở LC sẵn sàng chấp nhận các bất hợp lệ); (iii) NHPH thăm dò ý kiến của người mở LC; và (iv) NHPH gửi thông báo từ chối chứng từ cho người xuất trình.
Quy trình này khuyến khích các ngân hàng vận dụng triệt để Điều 14 © UCP 500, tức là thăm dò ý kiến của người yêu cầu mở LC trước khi đưa ra quyết định gửi thông báo từ chối. Thực ra, quy trình này, về cơ bản, cũng chẳng có gì mới và khác so với những cách xử lý mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Sự tương tự trong các quy trình xử lý càng khẳng định tính đúng đắn trong việc tuân thủ UCP 500 khi thực hiện xử lý chứng từ bất hợp lệ.
Tiến sĩ Khaled Kawan trong bài viết “The failure of proper notice revisited” đăng trên DCInsight Vol. 10 No. 1 Jan-Mar 2004 cũng đã đưa ra giải pháp thăm dò ý kiến của người mở LC trước khi đưa ra một thông báo từ chối. Theo Kawan, nếu phát hiện các bất hợp lệ, NHPH buộc phải từ chối chứng từ, trừ phi người yêu cầu mở LC được tham khảo ý kiến sẵn sàng chấp nhận các bất hợp lệ đó. Theo Kawan, thông báo từ chối không nên nêu rằng các chứng từ đang được giữ lại tuỳ sự định đoạt của người xuất trình, trừ phi NHPH đã thăm dò ý kiến người mở LC mà đã dứt khoát không chấp nhận các bất hợp lệ hoặc trừ phi NHPH biết chắc vào lúc phát đi thông báo rằng người mở LC không sẵn sàng chấp nhận các bất hợp lệ. Giải pháp của Kawan cũng đề cập đến giải pháp thăm dò ý kiến người mở LC trước khi gửi thông báo từ chối chứng từ. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng một khi một khi đã gửi thông báo mà không nêu rõ các chứng từ có hay không đang được giữ lại tuỳ sự định đoạt của người xuất trình là trái với quy định tại Điều 14 © UCP 500. Dường như Kawan muốn ám chỉ đến một thông báo chấp nhận các bất hợp lệ thì đúng hơn.
Thực tế cũng có những trường hợp dù biết rằng người mở LC đã chấp nhận các chứng từ bất hợp lệ và đồng ý thanh toán nhưng NHPH vẫn gửi một thông báo đến người xuất trình nêu rõ các điểm bất hợp lệ. Nội dung thông báo chứng từ bất hợp lệ đôi khi cũng được tìm thấy trong thông báo hoàn trả tiền (Advice of Reimbursement). Những thông báo kiểu này không nhằm mục đích từ chối các chứng từ mà chỉ là cơ sở để thu phí chứng từ bất hợp lệ.
Giải pháp quy định điều kiện xử lý chứng từ bất hợp lệ ngay từ khi phát hành LC
Trong bài viết đã dẫn, chúng tôi cũng đã có dịp đề cập đến một số giải pháp mà một số ngân hàng hiện đang áp dụng nhằm tránh rắc rối liên quan đến việc xử lý chứng từ theo Điều 14 UCP 500. Một trong những giải pháp đó là thay vì nêu trong thông báo từ chối, NHPH có thể quy định điều kiện xử lý chứng từ bất hợp lệ ngay từ khi phát hành LC, cho dù quy định này trái với Điều 14 UCP 500. Nếu LC được chấp nhận, điều kiện này sẽ trở thành một trong những điều khoản của LC và sẽ ràng buộc người thụ hưởng. Giải pháp này lần đầu tiên được đề xuất bởi James Barnes, một luật gia ở Chicago và Jeremy Smith, một chuyên gia ngân hàng ở London, sau này được một số ngân hàng áp dụng. Do vậy, chúng tôi không ngạc nhiên lắm khi có một tác giả khác tham gia viết bài bày tỏ quan điểm ủng hộ giải pháp này.
Trong bài viết đã dẫn, chúng tôi cũng đã có dịp bày tỏ quan điểm không đồng tình với giải pháp nêu trên. Nhân bàn tiếp lại vấn đề này, chúng tôi xin dẫn chứng quan điểm của John F. Dolan, giáo sư Luật tại Đại học Wayne, Detroit, Michigan về vấn đề này. Theo Dolan, một LC tuân thủ hoàn toàn Điều 14 UCP 500 là nhằm bảo đảm lợi ích của nhà xuất khẩu/người thụ hưởng. Thực hành xử lý chứng từ bất hợp lệ trái với Điều 14 UCP 500 hoặc đưa thêm vào LC những từ ngữ trái với quy định của UCP 500, trong chừng mực nào đó, làm xói mòn bản chất của LC và biến LC trở thành một sản phẩm ngân hàng thương mại kém hấp dẫn.
Cuối cùng, chúng tôi xin giới thiệu thêm, một giải pháp khác về xử lý chứng từ bất hợp lệ mà trong quá trình xử lý chứng từ chắc những ai từng làm công tác thanh toán LC cũng đã không dưới một lần từng xử lý như thế. Vincent Maulella, trước đây là một nhà ngân hàng ở New York, đã đề xuất giải pháp “thăm dò theo kiểu tung hứng”. Giải pháp này không dựa vào sự thay đổi câu chữ mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và trình độ chuyên môn ngân hàng. Giải pháp này không làm xói mòn bản chất của LC và Điều 14 được tôn trọng đầy đủ. Theo Maulella, những người thực hành thanh toán quốc tế giàu kinh nghiệm, hiểu biết về thị trường hàng hoá và doanh nghiệp … có thể đoán trước được liệu người mở LC có chấp nhận các bất hợp lệ của các chứng từ hay không. Nếu họ cảm thấy người mở LC sẽ chấp nhận các bất hợp lệ, học sẽ không gửi thông báo từ chối ngay. Trong trường hợp nghi ngờ hoặc không chắc chắn, việc gửi thông báo là cần thiết.
Thực tế giải pháp đề xuất của Maulella không phải là quá khó áp dụng đối với người thực hành xử lý chứng từ LC chưa có nhiều năm kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao vì thật ra xác suất rủi ro xảy ra nếu áp dụng giải pháp này là không lơn, nếu không nói là nhỏ. Theo thống kê của các chuyên gia thanh toán LC, hơn 70% số bộ chứng từ xuất trình thanh toán có các điểm bất hợp lệ nhưng tỷ lệ chứng từ bị từ chối thanh toán chỉ chiếm chưa đến 0,4%, một tỷ lệ không đáng kể. Do vậy, đừng quá quan ngại khi áp dụng giải pháp đề xuất bởi Maulella.
Kết luận
Bản sửa đổi UCP 500 đang được soạn thảo và dự kiến sẽ ra đời trong vài năm tới, trong đó Điều 14 là một trong những Điều trọng tâm của UCP (Điều 9, 13, 14, 21, 23, 37 và 48) được Uỷ ban Ngân hàng ICC xem xét sửa đổi cho phù hợp với thực tế phát sinh. Đối với Điều 14 (Các chứng từ bất hợp lệ và thông báo), một số vấn đề xoay quanh trách nhiệm của NHPH trong việc thăm dò ý kiến của người mở LC về việc chấp nhận các bất hợp lệ của các chứng từ, vấn đề cầm giữ các chứng từ chờ sự định đoạt của người xuất trình, làm rõ các bất hợp lệ v.v… sẽ được Ban soạn thảo UCP 600 hết sức lưu ý làm rõ vì thực tế trong thời gian quan đã có khá nhiều tranh chấp liên quan đến vấn đề này. Hi vọng rằng khi UCP 600 có hiệu lực, chúng ta không phải tiếp tục bàn thêm về vấn đề này nữa./.
NHĐ
P/S: Bài viết này được đăng trên TCNH năm 2004, lúc đó UCP 500 đang trong quá trình sửa đổi. Nay UCP 600 đã có hiệu lực áp dụng từ ngày 1/7/2007 với nhiều thay đổi so với UCP 500, trong đó Điều 14 đã được thay đổi đáp ứng được kỳ vọng của những người thực hành thanh toán LC. Khi UCP 600 còn ở dạng bản thảo, người viết đã có bài viết “UCP 600 có gì mới ?” (đã được đăng trên TCNH số 14 7/2006 và cũng đã được post lên blog này), trong đó có trình bày về thay đổi liên quan đến quy định về xử lý chứng từ bất hợp lệ. Dưới đây là một trích đoạn liên quan từ bài viết trên:

“Vấn đề xử lý các chứng từ bất hợp lệ (Discrepant Documents, Waiver and Notice)
Về vấn đề xử lý các chứng từ bất hợp lệ, trước đây người viết cũng đã có hai bài viết đăng trên Tạp chí Ngân hàng (số 10/2003) và trên Thông tin Vietcombank (số 11/2003 và số 9/2004), trong đó dẫn chứng một số trường hợp xử lý chứng từ bất hợp lệ trái với Điều 14 (d) UCP 500 của một số NHPH. Những ngân hàng này thường cố tình áp đặt điều kiện định đoạt chứng từ trong thông báo từ chối hoặc trong L/C, theo đó tự cho phép mình có quyền chuyển giao bộ chứng từ bất hợp lệ đã bị từ chối “có điều kiện” cho người mở L/C trong trường hợp người mở L/C chấp nhận mà không cần phải thông báo tiếp cho người xuất trình. Cách xử lý chứng từ bất hợp lệ này đã vấp phải sự phản đối của cộng đồng các ngân hàng khác nhau trên thế giới, không nhận được sự đồng tình của các chuyên gia quốc tế ICC cũng như không nhận được sự hậu thuẫn của các toà án khi xảy ra tranh chấp. Bài viết cũng dẫn chứng trường hợp tranh chấp giữa CIC và CMB về việc CMB (NHPH) từ chối chứng từ nhưng không chuyển trả chứng từ cho CIC (ngân hàng xuất trình). Quan tòa Steel (nước Anh) đã ra phán quyết như sau: “ Thông báo từ chối có nội dung “ ... nếu các bất hợp lệ được người mở L/C chấp nhận, chúng tôi sẽ giao chứng từ cho họ mà không phải thông báo tiếp cho người xuất trình...” là không phù hợp với Điều 14 (d) (ii) UCP 500 bởi các chứng từ đã không được gửi trả lại CIC và cũng không được giữ lại theo lệnh của ngân hàng này. Nếu NHPH (CMB) giao chứng từ cho người mở L/C khi nhận được sự chấp nhận của người mở L/C, mà không có sự đồng ý trước của người hưởng lợi, thì NHPH đã dại dột vì không giữ chứng từ để chờ sự định đoạt của người xuất trình/người hưởng lợi.”
Còn nhớ khi bài viết đầu tiên bàn về vấn đề xử lý chứng từ bất hợp lệ được đăng trên các tạp chí của Ngành, đã có thêm hai đồng nghiệp nữa tham gia tranh luận về vấn đề này, trong đó một tác giả thì rất hăng hái ủng hộ quan điểm một khi UCP chưa quy định cụ thể thì có thể vận dụng sáng tạo (?), còn tác giả kia thì kiên định với lập trường phải tuân thủ UCP. Người viết rất vui để thông báo cho bạn đọc quan tâm biết rằng UCP 600 sẽ giải quyết vấn đề này một cách linh động. Người thực hành L/C không cần phải “vận dụng sáng tạo” mà chỉ cần tuân thủ theo UCP.
Điều 16 (c) UCP 600 (Chứng từ bất hợp lệ, Chấp nhận và Thông báo) quy định: “Khi NHPH hoặc NHĐCĐ quyết định từ chối thanh toán (honour) hoặc chiết khấu, ngân hàng đó phải gửi một thông báo về việc đó cho người xuất trình. Thông báo phải nêu: (i) rằng ngân hàng từ chối thanh toán hoặc chiết khấu; và (ii) từng điểm bất hợp lệ liên quan mà ngân hàng từ chối thanh toán hoặc chiết khấu; và
a) rằng ngân hàng đang cầm giữ các chứng từ chờ các chỉ thị tiếp theo của người xuất trình;hoặc
b) rằng NHPH đang giữ các chứng từ cho đến khi nhận được thông báo chấp nhận và đồng ý chấp nhận bất hợp lệ, hoặc nhận được các chỉ thị tiếp theo của người xuất trình; hoặc
c) rằng ngân hàng đang gửi trả lại các chứng từ; hoặc
d) rằng ngân hàng đang hành động phù hợp với các chỉ thị trước đây đã nhận được từ người xuất trình”.

Như vậy, với quy định tại Điều 16 (c) UCP 600, NHPH hoặc NHĐCĐ có thể chọn lựa hình thức định đoạt chứng từ thích hợp để thông báo cho người xuất trình. Chẳng hạn, nếu NHPH hoặc NHĐCĐ muốn giao chứng từ bất hợp lệ cho người mở L/C khi nhận được thông báo chấp nhận và đồng ý chấp nhận bất hợp lệ của người mở L/C thì trong thông báo từ chối, ngân hàng đó phải nêu nội dung quy định điểm (iii) (b) nêu trên.
Điều 16 UCP 600 cũng nằm trong số 27 Điều “miễn bàn thêm”, do vậy, chắc chắn nội dung quy định trên đây xem như sẽ không thay đổi trong Bản thảo cuối cùng. Chúng ta có quyền hi vọng rằng vấn đề xử lý chứng từ bất hợp lệ gây nhiều tranh cãi bấy lâu nay sẽ chấm dứt khi UCP 600 chính thức có hiệu lực.”

Discussion on fake guarantees - Tình trạng thư bảo lãnh ngân hàng giả mạo

Tình trạng thư bảo lãnh ngân hàng giả mạo

Nguyễn Hữu Đức

Các bản tin phòng ngừa rủi ro của các ngân hàng Việt Nam gần đây liên tục trích đăng các bản tin cảnh báo của Văn phòng chống tội phạm thương mại quốc tế (International Commercial Crime Bureau - ICC ) về tình trạng bọn tội phạm sử dụng thư bảo lãnh ngân hàng giả mạo để lừa đảo những nhà đầu tư mất cảnh giác khi tin rằng có thể nhanh chóng kiếm được những khoản lợi nhuận lớn bằng cách mua đi bán lại những công cụ tài chính này. Đáng lưu ý là các bản tin phòng ngừa rủi ro cũng đã thông báo một số thư bảo lãnh ngân hàng giả mạo được phát hiện ở Việt Nam, trong đó có những thư bảo lãnh mạo danh các ngân hàng Việt Nam phát hành. Điều này cho thấy rằng bọn tội phạm quốc tế đã bắt đầu chú ý đến Việt Nam, một thị trường “rất tiềm năng” cho những hoạt động lừa đảo của chúng.
Lừa đảo bằng thư bảo lãnh ngân hàng giả mạo là một thủ đoạn còn khá mới đối với các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp Việt Nam. Những người chưa được cảnh báo rất dễ bị mất cảnh giác và sập bẫy của bọn lừa đảo. Để giúp bạn đọc quan tâm có thêm thông tin và tư liệu nhằm cảnh giác với thủ đoạn lừa đảo mới này, người viết xin được chia sẻ với bạn đọc cách nhận biết thư bảo lãnh ngân hàng giả mạo và cách xử lý những giao dịch đáng ngờ liên quan đến thư bảo lãnh.
LÀM THẾ NÀO ĐÊ NHẬN BIẾT THƯ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG GIẢ MẠO ?
Để tăng thêm độ chân thực và tính pháp lý của thư bảo lãnh ngân hàng giả mạo, thủ thuật của bọn tội phạm là tìm cách chuyển thư bảo lãnh qua hệ thống ngân hàng.bằng cách gọi điện thoại hoặc fax thư tra soát đến ngân hàng, xưng danh là một công ty X hoặc Y nào đó đang chờ một thư bảo lãnh của ngân hàng Z nào đó. Một bản sao thư bảo lãnh thường được phát hành dưới dạng điện SWIFT MT760 hoặc MT799 cũng được chúng gửi kèm theo qua fax hoặc email. Chúng cũng không quên thúc dục ngân hàng kiểm tra và xác nhận ngay bằng fax hoặc email cho chúng. Sau khi nhận được xác nhận bằng fax hoặc email của ngân hàng, chúng có thể dễ dàng thay đổi nội dung hoặc sử dụng tên của các cán bộ ngân hàng để làm tăng độ chân thực và tính pháp lý của thư bảo lãnh hoặc sử dụng cho các giao dịch lừa đảo khác. Thư bảo lãnh ngân hàng giả mạo thường có những đặc điểm rất dễ nhận biết như sau:
(i) Về giá trị bảo lãnh, hầu hết những thư bảo lãnh giả mạo có giá trị rất lớn, từ hàng chục triệu đến hàng trăm triệu USD hoặc tương đương. Năm 2003 bọn lừa đảo đã mạo danh Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNT VN) phát hành một thư tín dụng dự phòng (một dạng thư bảo lãnh ngân hàng) giả với số tiền bảo lãnh lên đến 14 triệu USD cho người hưởng lợi là một công ty nước ngoài có tên là Personnel Surgery Ltd. Rất may là là chưa có nhà đầu tư nào trở thành nạn nhân của thư bảo lãnh này. Mới đây Văn phòng Điều tra Tài chính (Financial Investigation Bureau – FIB) thông báo một thư bảo lãnh ngân hàng đáng ngờ có giá trị lên đến 500 triệu euro do Korea Joint Bank phát hành. Người hưởng lợi thư bảo lãnh này là Dunmore Trust Ltd đã gạ bán cho Phonenix Investments Foundations, LLC công cụ này với giá chiết khấu rất hời. Rất may Phonenix đã cảnh giác và thông báo cho FIB.
Cũng không nên bỏ qua những thư bảo lãnh có giả trị nhỏ chỉ vài trăm triệu ĐVN bởi hiện nay bọn tội phạm “cò con” ở Việt Nam đang tập tểnh sử dụng chiêu bài thư bảo lãnh ngân hàng giả mạo với giá trị nhỏ để dễ đánh lừa khách hàng trong nước. Chi nhánh NHNT VN tại thành phố Hồ Chí Minh vừa qua cũng đã thông báo một thư bảo lãnh thanh toán mà bọn lừa đảo đã mạo danh ngân hàng này phát hành với số tiền chỉ có 300 triệu đồng.
(ii) Về điều kiện thanh toán, ngân hàng phát hành cam kết không huỷ ngang và thanh toán vô điều kiện ngay khi nhận được yêu cầu đòi tiền đầu tiên theo lệnh của người hưởng lợi hoặc người nắm giữ bảo lãnh hợp pháp.
(iii) Về số tiền thanh toán, thư bảo lãnh giả mạo thường nêu rằng việc thanh toán sẽ được thực hiện đầy đủ, không thanh toán bù trừ, không khấu trừ phí các loại hoặc không giữ lại các khoản tiền thuế theo yêu cầu của bất kỳ chính phủ hoặc cơ quan chức năng nào của chính phủ…
(iv) Về thời hạn hiệu lực, thư bảo lãnh giả mạo thường nêu ngày đáo hạn (date of maturity) thay vì lẽ ra phải nêu ngày chấm dứt hiệu lực xuất trình yêu cầu thanh toán (expiry date).
(v) Về luật điều chỉnh, một số thư bảo lãnh đôi khi nêu là được điều chỉnh theo luật pháp Mỹ và Anh hoặc các nước khác nhưng.trong đa số các trường hợp, thư bảo lãnh thường nêu rằng được điều chỉnh bởi một quy tắc thực hành thống nhất về bảo đảm chứng từ (phiên bản 1993) Phòng Thương mại quốc tế ICC 500 (Uniform Customs and Practice for Documentary Securities (1993 version) International Chamber of Commerce Publication ICC No. 500). Phòng Thương mại quốc tế đã ấn hành các quy tắc điều chính liên quan đến giao dịch bảo lãnh như Uniform Rules for Demand Guarantees (URDG) điều chỉnh thư bảo lãnh trả ngay và International Standby Practices (ISP98) điều chỉnh giao dịch thư tín dụng dự phòng chứ chưa bao giờ có quy tắc lạ đời như trên. Dường như bọn lừa đảo cố ý lập lờ để người đọc có thể lẫn lộn với Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP 500) – quy tắc điều chỉnh các giao dịch L/C chứ không liên quan đến thư bảo lãnh.
(vi) Về điều kiện chuyển nhượng, thư bảo lãnh thường được nêu là một công cụ có giá trị hiệu lực, người hưởng lợi có thể chuyển nhượng.
(vii) Thư bảo lãnh ngân hàng giả mạo thường nêu tên và địa chỉ ngân hàng na ná giống tên và địa chỉ của một ngân hàng có thật. Rất dễ bị nhầm nếu không kiểm tra cẩn thận.
(viii) Thư bảo lãnh giả mạo thường nêu rõ tên và chức danh của hai cán bộ ngân hàng ở phần cuối bức điện MT760 hoặc MT799 . Thực tế những bảo lãnh được phát hành bằng SWIFT MT760 hoặc MT799 không ghi tên cán bộ ngân hàng.
Năm 2003 một cán bộ Ngân hàng Công thương Việt Nam đến NHNT VN để kiểm tra thông tin về một thư tín dụng dự phòng do NHNT VN phát hành cho người hưởng là một công ty ở Canada. Thư tín dụng này có đóng dấu ngân hàng và chữ ký của phó tổng giám đốc và cán bộ phòng bảo lãnh NHNT VN. Tuy nhiên, sau khi kiểm tra, ngân hàng này xác nhận rằng dấu và các chữ ký trên thư tín dụng dự phòng trên là hoàn toàn giả mạo. Người viết bài này có trong tay bản sao thư tín dụng dự phòng nêu trên và thấy rằng ngoài dấu và các chữ ký đều giả mạo, nội dung của thư tín dụng dự phòng này chứa đựng nhiều chi tiết giống như những đặc điểm thường thấy ở những thư bảo lãnh ngân hàng giả mạo: giá trị bảo lãnh lên đến 14 triệu USD, ngày đáo hạn (date of maturity) được nêu thay vì ngày chấm dứt hiệu lực xuất trình chứng từ, không tìm thấy địa chỉ của người hưởng lợi ngoại trừ số tài khoản mở tại một ngân hàng “ma” là Canadian Imperial Bank of Canada, na ná giống tên của một ngân hàng có thật ở Canada - Canadian Imperial Bank of Commerce, luật điều chỉnh là một quy tắc cũng chưa hề tồn tại, xin được ghi nguyên văn kể cả lỗi chính tả: “This credit is subject to the uniform letter of costoms and practices documentary credits 1993 revision,ICC Publication 500”... Một chi tiết thú vị là thư tín dụng dự phòng này được lập bằng song ngữ, trình bày theo kiểu xen kẻ một dòng tiếng Anh một dòng tiếng Việt với cách dịch xa lạ với những người có chuyên môn thanh toán quốc tế, chẳng hạn như câu trên được dịch như sau: “Thư tín dụng này phụ thuộc vào thư đồng dạng về các thủ tục tín dụng tài liệu năm 1993, bản sửa, phát hành ICC 500”.
Có một điều khó hiểu là tại sao bọn lừa đảo vẫn cứ tiếp tục sử dụng những thư bảo lãnh ngân hàng giả mạo với những đặc điểm dễ dàng nhận biết và nhiều sai sót thơ ngây như thế. Thật khó tin rằng bọn lừa đảo không đủ khả năng tạo ra những thư bảo lãnh ngân hàng siêu giả. Phải chăng vẫn còn có nhiều nhà đầu tư quá hám lợi mà quên cảnh giác ? Điều này có thể đúng bởi với những điều kiện hấp dẫn như cam kết không huỷ ngang thanh toán vô điều kiện, có thể chuyển nhượng, người hưởng lợi nhận đủ trị giá bảo lãnh mà không bị khấu trừ phí hoặc thuế … cùng với điều kiện về giá cả chuyển nhượng hứa hẹn đem lại khoản lợi nhuận lớn và nhanh chóng, những thư bảo lãnh ngân hàng giả mạo như trên hoàn toàn có thể khiến không ít những nhà đầu tư mắc lừa.

XỬ LÝ NHỮNG GIAO DỊCH ĐÁNG NGỜ LIÊN QUAN ĐẾN THƯ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
Theo kinh nghiệm của các chuyên gia ngân hàng, khi gặp những giao dịch đáng ngờ liên quan đến thư bảo lãnh, ngân hàng nên xử lý như sau:
* Liên hệ ngay với ngân hàng phát hành, thông báo đầy đủ các chi tiết thư bảo lãnh như số tham chiếu, tên người yêu cầu bảo lãnh, số tiền bảo lãnh, người hưởng lợi … và yêu cầu xác nhận về việc phát hành thư bảo lãnh.
* Hạn chế trả lời người tra soát thư bảo lãnh bằng email hoặc bằng văn bản bởi vì nếu đúng là bọn lừa đảo, hắn ta có thể thay đổi thư trả lời của ngân hàng và sử dụng hoặc sử dụng tên của cán bộ ngân hàng để làm tăng độ chân thực và tính pháp lý của thư bảo lãnh giả mạo hoặc sử dụng cho các giao dịch lừa đảo khác.
* Hạn chế dính líu vào những giao dịch này bằng cách không thông báo thư bảo lãnh ngân hàng cho người hưởng lợi và cũng không trả lời những tra soát tiếp theo của người tra soát thư bảo lãnh.
* Thông báo cho bộ phận thông tin tín dụng và phòng ngừa rủi ro của ngân hàng, nơi có nhiều dữ liệu cảnh báo về bọn lừa đảo để xác minh tính chân thật của giao dịch.
* Nếu người tra soát thư bảo lãnh tiếp tục liên hệ, hãy cảnh cáo hắn rằng ngân hàng đã thông báo cho công an về giao dịch có dấu hiệu đáng ngờ của hắn.
Để bạn đọc quan tâm có thêm tư liệu, người viết xin được trích dẫn dưới đây một số kinh nghiệm được đúc kết bởi Helena Kwok, chuyên gia tư vấn rủi ro của Canadian Imperial Bank of Commerce, trong việc xử lý những giao dịch đáng ngờ liên quan đến thư bảo lãnh ngân hàng :
NHỮNG ĐIỀU CẦN LÀM:
· Luôn cảnh giác và hiểu biết đầy đủ những thủ đoạn lừa đảo liên quan đến thư bảo lãnh.
· Luôn đặt dấu hỏi đối với mọi giao dịch liên quan có dấu hiệu đáng ngờ.
· Biết rõ khách hàng và tập quán kinh doanh của họ.
· Đặt dấu hỏi đối với những thay đổi trong cách thức kinh doanh của khách hàng.
· Xác minh tính pháp lý và tính xác thực của tất cả các chỉ thị nhận được qua điện thoại/email/ SWIFT/telex/fax trước khi hoàn tất giao dịch.
· Thông báo cho cán bộ cấp cao hơn những giao dịch hoặc thư bảo lãnh có có dấu hiệu đáng ngờ là giả mạo.
NHỮNG ĐIỀU KHÔNG LÀM:
· Không cung cấp thông tin qua điện thoại/email/ SWIFT/telex/fax trừ phi biết rõ và tin người đang tra soát là ai.
· Không bàn thảo quy trình nghiệp vụ nội bộ với những người ngoài ngành.
· Không trả thư cho những đối tượng đáng ngờ trên giấy có tiêu đề của ngân hàng.
· Không tuỳ tiện đưa danh thiếp.
· Không cho phép người khác ép buộc phải cung cấp thông tin.
Hi vọng rằng bài viết này cùng với các bản tin phòng ngừa rủi ro của các ngân hàng có thể góp thêm tiếng chuông cảnh báo cũng như ngăn ngừa tình trạng thư bảo lãnh ngân hàng giả mạo đang xâm nhập vào thị trường Việt Nam./.
NHĐ

P/S: Bài viết này đã được đăng trên Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ

Order Bill of Lading

Vận đơn theo lệnh: Một số vấn đề cần lưu ý


Nguyễn Hữu Đức

Vận đơn đường biển (Marine/Ocean Bill of Lading) - chứng từ quan trọng nhất trong các giao dịch là chứng từ chứng minh việc giao hàng (shipment). Nó được phát hành bởi nhà chuyên chở hoặc đại lý của nhà chuyên chở như là một giấy biên lai nhận hàng của nhà chuyên chở. Quan trọng hơn, vận đơn là một chứng từ sở hữu (document of title), cho phép người nắm giữ vận đơn gốc nhận hoặc chuyển quyền sở hữu đối với hàng hoá ghi trên vận đơn. Nó thường được phát hành theo lệnh (made out to order), và do đó có thể được chuyển nhượng bằng cách ký hậu. Vận đơn thường được phát hành 3 bản gốc đóng dấu “ORIGINAL” và một số bản sao có ghi dòng chữ “COPY – NON NEGOTIABLE”. Bản sao klhông có giá trị sở hữu hàng hoá mà chủ yếu được dùng để làm các thủ tục hải quan. Tất cả các bản gốc hợp thành một bộ đầy đủ (a full set). Ngay khi một trong những bản gốc được xuất trình để nhận hàng, các bản còn lại không còn giá trị. Trừ khi thư tín dụng quy định khác, ngân hàng thường yêu cầu người thụ hưởng xuất trình một bộ đầy đủ.
Xét về quyền sở hữu hàng hoá ghi trên vận đơn, chúng ta cần phân biệt hai loại vận đơn: Vận đơn đích danh (Straight B/L) và Vận đơn theo lệnh (Order B/L).
Vận đơn đích danh là vận đơn được lphát hành ghi đích danh tên người nhận hàng (a named consignee) và không thể ký hậu cho người khác được.
Vận đơn theo lệnh là vận đơn được lập theo lệnh của người gửi hàng (to the order of shipper) hoặc theo lệnh của người nhận hàng (to the order of consignee) hoặc theo lệnh của một ngân hàng (to the order of a bank), và do vậy có thể được ký hậu chuyển nhượng cho một bên khác. Ngoài ra, vận đơn có thể được lập theo lệnh ký hậu để trống (to order blank endorsed), cho phép bất kỳ người nào nắm giữ vận đơn, người đó có quyền sở hữu đối với hàng hoá ghi trong vận đơn. Thực tế thỉnh thoảng trong LC hạn chế (restricted LC) hoặc LC xác nhận (confirmed LC), chúng ta bắt gặp yêu cầu vận đơn được lập theo lệnh của một ngân hàng (thường là ngân hàng chiết khấu được chỉ định hoặc ngân hàng xác nhận) ký hậu cho ngân hàng phát hành LC.
Việc vận đơn được lập theo lệnh của ai thường tuỳ thuộc vào ngân hàng phát hành LC. Thông thường vận đơn được lập theo lệnh của ngân hàng phát hành LC. Ngân hàng phát hành LC cam kết thanh toán cho nhà xuất khẩu khi nhận được chứng từ phù hợp nên ngân hàng mong muốn trong chừng mực nào đó có thể quản lý hàng hoá mà mình phải trả tiền cho đến khi người yêu cầu mở LC nhận nợ vay (đối LC mở bằng vốn vay) hoặc ký quỹ đủ (đối với LC mở bằng vốn tự có) để thanh toán cho nước ngoài.
Trường hợp khi yêu cầu mở LC, nhà nhập khẩu cùng thường yêu cầu vận đơn lập theo lệnh của ngân hàng phát hành LC để chắc chắn rằng mình sẽ được ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận thanh toán khi xuất trình chứng từ phù hợp, thậm chí cũng sẽ được thanh toán ngay cả kh chứng từ xuất trình không phù hợp nếu như trước khi nhận được chứng từ xuất trình bởi ngân hàng của nhà xuất khẩu, ngân hàng phát hành đa ký hậu vận đơn cho nhà nhập khẩu nhận hàng (trường hợp 1/3 vận đơn gốc được gửi trực tiếp cho nhà nhập khẩu bằng chuyển phát nhanh ngay sau khi hoàn thành việc xếp hàng) hoặc trước đó ngân hàng đã phát hành thư bảo lãnh cho nhàn nhập khẩu nhận hàng (trường hợp hàng hoá đến trước chứng từ).
Với vận đơn ký hậu để trống, nhà xuất khẩu thường không chấp nhận yêu cầu 1/3 vận đơn gốc gửi trực tiếp cho nhà nhập khẩu vì như đã nói, vận đơn ký hậu để trống cho phép bất kỳ người nào nắm giữ vận đơn đều có quyền sở hữu đối với hàng hoá ghi trên vận đơn. Nhà xuất khẩu sợ rằng với tính chất trên của vận đơn ký hậu để trống, nhà nhập khẩu có thể lợi dụng nhận hàng rồi từ chối thanh toán hoặc thanh toán chậm trong trường hợp chứng từ xuất trình bởi nhà xuất khẩu không phù hợp.
Vận đơn lập theo lệnh của ai hoặc ký hậu để trống đều có những ưu nhược điểm riêng của nó một khi những tranh chấp phát sinh vượt quá phạm vi điều chỉnh của Quy tắc thực hành và tập quán thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP 500). Cách hiểu và vận dụng UCP 500 thiếu thống nhất giữa các ngân hàng cũng dẫn đến tranh chấp trong thanh toán.
Tranh chấp sau đây giữa Vietcombank (VCB) và Bank of Tokyo (BOT) năm 1996 là trường hợp khá điển hình liên quan đến vận đơn ký hậu để trống.
Nhà xuất khẩu Việt Nam sau khi xuất hàng đã xuất trình bộ chứng từ, trong đó có 3/3 vận đơn gốc, cho VCB. VCB kiểm tra chứng từ phù hợp và gửi chứng từ cho ngân hàng phát hành là BOT yêu cầu thanh toán. Tuy nhiên, quá thời gian hợp lý mà không nhận được được tiền thanh toán từ BOT, VCB điện giục thanh toán và nhận được điện trả lời của BOT rằng họ đã bảo lãnh nhận hàng và sẵn sàng thanh toán khi nhận được chứng từ. Sau khi kiểm tra với cơ quan chuyển phát nhanh TNT, VCB mới biết rằng bộ chứng từ đã thất lạc trên đường đi. Tuy vậy, VCB vẫn kiên quyyết yêu cầu BOT trả tiền với lý do họ đã bảo lãnh nhận hàng. Với lý do chứng từ thất lạc trong đó có 3/3 vận đơn gốc lập theo lệnh ký hậu để trống có thể mang rủi ro cho họ vì nếu ai đó nhặt được vận đơn và yêu cầu nhà chuyên chở giao hàng, BOT đề nghị VCB phát hành bảo lãnh cho hãng tàu để giải phóng trách nhiệm của họ và họ sẽ thanh toán ngay. Ý thức được rủi ro mà vận đơn ký hậu để trống có thể mang lại cho mình, VCB cũng từ chối thực hiện yêu cầu của BOT.
TNT viện dẫn Công ước Warsaw 1929 cho rằng họ không chịu trách nhiệm bồi thường bộ chứng từ bị thất lạc theo giá trị của nó mà việc đến bù sẽ căn cứ theo trọng lượng của chứng từ, tức là khoảng 250 fr/kg. Theo Điều 16 UCP 500, ngân hàng không chịu trách nhiệm đối với hậu quả phát sinh từ việc chậm trễ hay sự thất lạc trên đường đi. VCB chiết khấu bộ chứng từ theo hình thức có truy đòi (negotiation with recourse) nên rủi ro cuối cùng nhà xuất khẩu phải gánh chịu.
Tuy nhiên, sau một thời gian khá dài tranh cải, BOT cũng đã phải thực hiện thanh toán. Vấn đề ở đây là vận đơn lập theo lệnh ký hậu để trống đã bộc lộ nhược điểm từ chính ưu điểm tiện lợi “ai nắm giữ nó, người đó có quyền sở hữu”. Nếu vận đơn được lập theo lệnh của BOT thì có lẽ BOT sẽ thanh toán sớm hơn vì vận đơn thất lạc chưa được ký hậu bởi BOT sẽ không dẫn đến hậu quả ai đó có thể lợi dụng vận đơn đó để nhận hàng.
Nếu thận trọng ngân hàng thông báo LC có thể tư vấn cho nhà xuất khẩu của mình khắc phục nhược điểm của loại vận đơn này bằng cách yêu cầu tu chỉnh LC quy định chứng từ gửi cho ngân hàng thanh toán chỉ định/ ngân hàng phát hành chia làm 2 lần liên tiếp (02 consecutive lots) để phòng “sẩy chị còn em” hoặc quy định vận đơn lập theo lệnh của ngân hàng.

Tình huống sau đây liên quan đến vận đơn không được ký hậu dẫn đến tranh chấp và Uỷ ban Ngân hàng ICC đã có ý kiến về vấn đề này.
Nhà xuất khẩu xuất trình chứng từ có vận đơn lập theo lệnh của của ngân hàng xác nhận. Ngân hàng xác nhận chiết khấu và gửi cho ngân hàng phát hành LC bộ chứng từ bao gồm vận đơn được ký hậu cho ngân hàng phát hành yêu cầu hoàn trả tiền. Sau khi kiểm tra ngân hàng phát hành thấy chứng từ có sai sót và thông báo cho ngân hàng xác nhận từ chối hoàn trả. Ngân hàng xác nhận phản đối những sai sót do ngân hàng phát hành nêu ra. Ngân hàng phát hành bèn gửi trả toàn bộ chứng từ cho ngân hàng xác nhận. Viện dẫn Điều 14 e UCP 500 “… nếu ngân hàng không gửi trả bộ chứng từ lại cho ngân hàng chuyển chứng từ và/hoặc ngân hàng xác nhận, ngân hàng phát hành sẽ mất quyền tuyên bố chứng từ không phù hợp với các điều kiện và điều khoản của LC”, ngân hàng xác nhận cho rằng mặc dù bộ chứng từ thực tế đã được gửi trả lại cho ngân hàng xác nhận nhưng xét từ quan điểm pháp lý xem như nó chưa được gửi trả lại do chứng từ (vận đơn) chưa được ký hậu lại cho ngân hàng xác nhận. Với quan điểm đó, ngân hàng xác nhận tiếp tục yêu cầu ngân hàng phát hành phải thanh toán LC.
Ý kiến của Uỷ ban Ngân hàng ICC cho rằng ngân hàng phát hành đã hành động đúng, ngân hàng xác nhận không thể yêu cầu ngân hàng phát hành ký hậu chứng từ mà ngân hàng phát hành đã không đồng ý chấp nhận theo LC. Tập quán của các ngân hàng khi gửi trả lại chứng từ nếu phát hiện có sai sót là gửi trả lại nguyên trạng như khi nhận. Ngân hàng phát hành không phải quyết định có nên sửa đổi chứng từ hay không kể cả việc ký hậu.
Với tình huống này ta thấy ngoài việc không được thanh toán, ngân hàng xác nhận gặp khó khăn là không thể ký hậu vận đơn chuyển nhượng cho nhà nhập khẩu khác nếu như thoả thuận được vì người có quyền sở hữu hàng hoá theo vận đơn là ngân hàng phát hành.
Với LC quy định vận đơn lập theo lệnh của ngân hàng phát hành hoặc theo lệnh của nhà xuất khẩu hoặc với bộ chứng từ thanh toán theo phương thức D/P hoặc D/A có vận đơn lập theo lệnh tương tự nếu vì lý do sai sót chứng từ bị từ chối thanh toán, nhà xuất khẩu/ngân hàng chiết khấu cũng sẽ gặp tình huống khó khăn như trên. Trong tình huống này nhà xuát khẩu/ngân hàng chiết khấu lại nghĩ tới tính linh hoạt của vận đơn lập theo lệnh để trống.
Tuy mỗi loại vận đơn theo lệnh có những ưu và nhược điểm khác nhau, trên thực tế do tính chất sở hữu hàng hoá của vận đơn buộc các ngân hàng tài trợ nhập khẩu bằng phương thức thanh toán LC đều yêu cầu LC quy định vận đơn lập theo lệnh của mình. Về phía nhà xuất khẩu, yêu cầu này cũng giúp bảo đảm cho việc họ chắc chắn sẽ nhận được thanh toán từ ngân hàng phát hành LC một khi chứng từ xuất trình phù hợp hoặc một khi nhà nhập khẩu nhận hàng. Ngoài sự phù hợp của chứng từ còn vì lý do an toàn và chắc chắn nhận được sự hoàn trả từ phía ngân hàng phát hành LC, ngân hàng chiết khấu vẫn thích chiết khấu bộ chứng từ có vận đơn lập theo lệnh của ngân hàng phát hành hơn là chiết khấu một một chứng từ có 1/3 vận đơn gốc ký hậu để trống được gửi trực tiếp cho nhà nhập khẩu./.
NHD
P/S: Bài viết này được đăng trên TCNH năm 2001, lúc đó UCP 500 chưa có quy định ai sẽ chịu trách nhiệm trả tiền trong trường hợp chứng từ thất lạc trên đường đi. UCP 600 đã có quy định về vấn đề này, theo đó ngân hàng phát hành/ngân hàng xác nhận có nghĩa vụ phải trả tiền ngay cả trong trường hợp chứng từ phù hợp thất lạc trên đường đi. Điều 35 UCP 600 (Sự miễn trách về chuyển giao và dịch thuật) quy định như sau: “… Nếu một ngân hàng được chỉ định xác định chứng từ xuất trình phù hợp và gửi chứng từ đến ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận, cho dù ngân hàng được chỉ định có trả tiền hoặc chiết khấu hay không, ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận phải trả tiền hoặc chiết khấu hoặc hoàn trả tiền cho ngân hàng được chỉ định đó, ngay cả khi chứng từ bị thất lạc trên đường đi giữa ngân hàng được chỉ định và ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận, hoặc giữa ngân hàng xác nhận và ngân hàng phát hành” (If a nominated bank determines that a presentation is complying and forwards the documents to the issuing bank or confirming bank, whether or not the nominated bank has honoured or negotiated, an issuing bank or confirming bank must honour or negotiate, or reimburse that nominated bank, even when the documents have been lost in transit between the nominated bank and the issuing bank or confirming bank, or between the confirming bank and the issuing bank).

Bàn về điều kiện thanh toán của LC xuất khẩu hàng thuỷ sản sang thị trường Bắc Mỹ và EU - Discussion on payment conditions of aqua-product export LC to North American and EU markets

Bàn về điều kiện thanh toán của LC xuất khẩu hàng thuỷ sản sang thị trường Bắc Mỹ và EU
Nguyễn Hữu Đức
Trong những năm gần đây các nhà xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cố gắng thâm nhập vào thị trường Bắc Mỹ và EU. Tuy nhiên, việc xuất khẩu thuỷ sản vào những thị trường mới này gặp không ít những trở ngại. Vụ hàng chục container hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang thị trường Bắc Mỹ và EU bị tiêu huỷ hoặc bị gửi trả lại do không vượt qua được sự kiểm tra ngặt nghèo của Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (USFDA - US Food and Drugs Administration), Cơ quan Kiểm tra Thực phẩm Canada (CFIA - Canadian Food Inspection Agency) hoặc các cơ quan quản lý thực phẩm của các nước EU cho thấy những thị trường mới này hoàn toàn không phải dễ chơi đối với các nhà xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
Trong bài viết này dưới góc độ của ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu, chúng tôi xin được lưu ý các nhà xuất khẩu (người thụ hưởng LC) một số vấn đề về điều kiện thanh toán của những LC được phát hành bởi các ngân hàng Bắc Mỹ và EU, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm giúp các nhà xuất khẩu hạn chế rủi ro và tối đa hoá cơ hội được tài trợ trong giao dịch thanh toán theo phương thức LC.
Như đã đề cập ở trên, hàng thuỷ sản nhập vào thị trường Bắc Mỹ và EU phải trải qua sự kiểm tra nghiêm ngặt của các cơ quan chức năng của các nước này. Nếu mở LC với điều kiện thanh toán thông thường, nhà nhập khẩu (người yêu cầu mở LC) phải thực hiện thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán trên cơ sở chứng từ xuất trình phù hợp, trong khi họ có thể sẽ phải gánh chịu rủi ro nếu lô hàng không vượt sự kiểm tra của các cơ quan chức năng. Do đó, để loại bỏ rủi ro này, các nhà nhập khẩu ở các nước Bắc Mỹ và EU yêu cầu ngân hàng của họ phát hành LC có điều kiện thanh toán như sau:
"Nhằm tạo điều kiện cho việc kiểm tra hàng hoá của cơ quan chức năng và trên cơ sở cam kết của người yêu cầu mở LC về việc thông báo ngay lập tức cho ngân hàng phát hành LC kết quả kiểm tra của cơ quan chức năng, ngân hàng phát hành LC sẽ giao bộ chứng từ xuất trình bởi người thụ hưởng cho người yêu cầu mở LC mà không phải thực hiện thanh toán hoặc chấp nhận hối phiếu (đối với LC thanh toán có kỳ hạn). Ngân hàng phát hành LC sẽ chỉ thực hiện thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán khi nhận được văn bản của cơ quan chức năng chấp thuận cho hàng hoá được nhập vào nước sở tai. Ngân hàng phát hành LC được miễn trách nhiệm thanh toán cho người thụ hưởng nếu nhận được thông báo bác khước hàng háo của ciư quan kiểm tra do người yêu cầu mở LC cung cấp".
Một số ngân hàng chặt chẽ hơn thì quy định về việc miễn trừ trách nhiệm của ngân hàng phát hành như sau:
"Ngân hàng phát hành LC được miễn trừ trách nhiệm thanh toán cho người thụ hưởng nếu trong thời hạn 21 ngày (hoặc 30 ngày tuỳ theo từng ngân hàng) kể từ ngày giao chứng từ, ngân hàng phát hành LC: (a) nhận được thông báo từ chối thanh toán bằng văn bản của người yêu cầu mở LC kèm theo thông báo bác khước hàng hoá của cơ quan chức năng; hoặc (b) không nhận được bất cứ thông báo nào từ người yêu cầu mở LC về kết quả kiểm tra của cơ quan chức năng".
Một điều lưu ý thêm là hầu hết các LC có điều kiện thanh toán tương tự như trên đều không dẫn chiếu câu kết quen thuộc là "LC này tuân thủ theo UCP 500 (nay là UCP 600)".
Chuẩn bị tư liệu và cơ sở cho bài viết này, chúng tôi đã sưu tập và xem xét gần 20 LC có điều kiện thanh toán đặc biệt như trên, được phát hành bởi các ngân hàng Mỹ, Canada, EU ... Để người đọc có thêm thông tin, chúng tôi lựa chọn và trích nguyên văn điều kiện thanh toán phổ biến từ một LC do một ngân hàng Mỹ phát hành (tạm gọi là ABC Bank) cho người thụ hưởng là nhà xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam:
"USFDA inspection is a condition of this LC that we, ABC Bank, will deliver any documents presented under this LC "free of payment" to the applicant for the purpose of inspection and clearing by the USFDA. We will release the documents against a trust receipt signed by the applicant undertaking to have the merchandise inspected by the USFDA and notify us upon passage or rejection of the same. Upon receipt of the applicant's notice of USFDA approval, the relative draft will be honour. If we receive a notice of rejection from the applicant or fail to receive any notification within 21 days from the receipt date we will notify the remitting bank or beneficiary accordingly, and shall have no further responsibility therein ... This LC is payable 100% after apssage of USFDA".
(Tạm dịch: Kiểm tra của USFDA là điều kiện của LC này, theo đó chúng tôi, ABC Bank, sẽ giao bất cứ chứng từ nào xuất trình theo LC này cho người yêu cầu mở LC "không phải thanh toán" để USFDA thựchiện kiểm tra. Chúng tôi sẽ giao chứng từ đổi lấy giấy cam kết của người yêu cầu mở LC về việc sẽ để USFDA thực hiện kiểm tra hàng hoá được phép nhập hay bị bác khước. Khi nhận được thông báo của người yêu cầu mở LC về việc chấp thuận của USFDA, hối phiếu liên quan sẽ được thanh toán. Nếu chúng tôi nhận được thông báo bác khước từ người yêu cầu mở LC hoặc không nhận được bất cứ thông báo nào trong vòng 21 ngày kể từ ngày cam kết, chúng tôi sẽ thông báo việc này cho ngân hàng xuất trình hoặc người thụ hưởng và không chịu trách nhiệm gì nữa ... LC này được thanh toán 100% sau khi hàng hoá được USFDA cho phép nhập"
Việc hàng hoá bị tiêu huỷ hoăch bị gửi trả lại trong trường hợp không vượt qua được sự kiểm tra của các cơ quan chức năng của các nước Bắc Mỹ và EU là điều kiện khách quan buộc nhà xuất khẩu phải chấp nhận cũng như đã chấp nhận khi ký hợp đồng xuất khẩu thuỷ sản sang những thị trường khó tính này. Tuy nhiên, với những LC có điều kiện thanh toán được quy định như trên thì ngay cả khi hàng hoá đủ tiêu chuẩn và vượt qua được sự kiểm soát của cơ quan chức năng nước sở tại, nhà xuất khẩu sẽ phải đối mặt với một số bất lợi sau đây:
" Độ rủi ro trong thanh toán cao : Mặc dù giao dịch được thanh toán bằng LC, một phương thức an toàn hơn các phương thức thanh toán khác, nhưng trong trường hợp này nhà xuất khẩu không nhận được cam kết thanh toán chắc chắn của ngân hàng phát hành LC. Nếu so sánh với phương thức nhờ thu chứng từ hoặc phương thức thanh toán chuyển tiền bằng điện sau khi nhận hàng, phương thức thanh toán bằng LC có điều kiện này cũng rủi ro không kém bởi việc thanh toán chủ yếu phụ thuộc vào thiện chí của nhà nhập khẩu (người yêu cầu mở LC).
* Khả năng chiết khấu của chứng từ bị hạn chế : Các ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu trong trường hợp này thường đóng vai trò là một ngân hàng chuyển chứng từ (remitting bank) hơn là một ngân hàng thương lượng (negotiating bạnk) và do đó, họ sẽ không mạo hiểm chấp nhận chiết khấu chứng từ xuất trình theo LC chiết khấu trả ngay (negotiation LC) cho dù chiết khấu theo hình thức truy đòi (negotiation with recourse) và chắc chắn họ sẽ không mạo hiểm để chiết khấu hối phiếu trả chậm (đối với LC thanh toán có kỳ hạn), trừ khi họ nhân được xác nhận của ngân hàng phát hành LC rằng hối phiếu trả chậm đã được ngân hàng phát hành LC ký chấp nhận.
* Phải gánh thêm nhiều chi phí lãi vay ngân hàng : Nhà xuất khẩu thường không nhận được sự thanh toán sớm như đáng lẽ ra họ đã phải nhận được, cho dù chứng từ xuất trình phù hợp nghiêm ngặt với các điều kiện và điều khoản của LC trả ngay bởi (a) thời gian để cơ quan chức năng nước sở tại kiểm tra hàng hoá thông thường kéi dài từ 15 đến 30 ngày kể từ khi nhận chứng từ; (b) nhà nhập khẩu nước ngoài thường cố tình trì hoãn việc thanh toán bằng cách không thông báo cho ngân hàng phát hành LC về kết quả kiểm tra hàng hoá của cơ quan chức năng. Thực tế cho thấy nhiều LC trả ngay mà phải mất gần hai tháng kể từ ngày xuất trình chứng từ nhà xuất khẩu mới được trả tiền. Trong những trường hợp này, do vòng quay vốn bị chậm, nhà xuất khẩu phải gánh chịu thêm chi phí lão vay ngân hàng nếu LC xuất khẩu được ngân hàng tài trợ.
* Khả năng chấp nhận tài trợ xuất khẩu của ngân hàng thấp : Do điều kiện thanh toán của LC khá rủi ro nên trong một số trường hợp, ngân hàng có thể từ chối cho nhà xuất khẩu vay vốn để thực hiện thu mua hàng xuất khẩu.
Theo chúng tôi, việc kiểm tra của cơ quan chính phủ nước sở tại đối với thực phẩm nhập khẩu là một yêu cầu đã trở thành luật lệ buộc cả nhà nhập khẩu lẫn nhà xuất khẩu phải chấp nhận. Tuy nhiên, sẽ thật là mạo hiểm và đầy rủi ro cho nhà xuất khẩu Việt Nam nếu chấp nhận những LC có điều kiện thanh toán như điều kiện của ABC Bank mà chúng tôi đã trích dẫn ở trên. Có một thực tế là không phải chỉ có ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu khuyến cáo khách hàng của mình không nên chấp nhận những LC có điều kiện thanh toán như điều kiện của LC do ABC Bank phát hành mà ngay cả một số ngân hàng uy tín phục vụ nhà nhập khẩu ở các nước Bắc Mỹ và EU cũng không chấp nhận yêu cầu mở LC với điều kiện thanh toán như thế. Để giúp các nhà xuất khẩu Việt Nam hạn chế một số bất lợi và rủi ro trong giao dịch xuất khẩu hàng thuỷ sản vào thì trường Bắc Mỹ và EU thanh toán bằng LC mà vẫn có thể bảo đảm thoả mãn được yêu cầu của nhà nhập khẩu, chúng tôi đề xuất hai giải pháp cấu trúc nội dung điều kiện thanh toán LC dưới đây để nhà xuất khảu có thể thương lượng, dàn xếp với nhà nhập khẩu:
Giải pháp 1:
* Để tạo điều kiện cho việc kiểm tra hàng hoá của cơ quan chức năng, khi nhận được bộ chứng từ phù hợp với điều kiện của LC, ngân hàng phát hành LC sẽ giao chứng từ cho người mở LC mà không phải thực hiện thanh toán hoặc chấp nhận hối phiếu (đối với LC trả chậm).
* Ngay sau khi giao chứng từ cho người yêu cầu mở LC nhưng không chậm hơn 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được chứng từ phù hợp, ngân hàng phát hành thực hiện thông báo cho người thụ hưởng, nêu rõ ngày giao chứng từ cho người yêu cầu mở LC.
* Ngân hàng phát hành LC cam kết sẽ thanh toán/chấp nhận hối phiếu (đối với LC chấp nhận) cho người thụ hưởng khi một trong hai trường hợp sau đây xảy ra, tuỳ theo trường hợp nào xảy ra trước:
(a) Khi nhận được thông báo bằng văn bản của người yêu cầu mở LC hoặc thông báo của cơ quan kiểm tra (do người yêu cầu mở LC cung cấp), xác nhận rằng hàng hoá được phép nhập và nước sở tại; hoặc:
(b) 21 ngày kể từ ngày ngân hàng phát hành chuyển giao chứng từ cho người yêu cầu mở LC để tiến hành thủ tục kiểm tra hàng hoá.
* Ngân hàng phát hành LC sẽ không chịu trách nhiệm thanh toán cho người thụ hưởng nếu trong vòng 21 ngày kể từ ngày ngân hàng phát hành chuyển giao chứng từ cho người yêu cầu mở LC, ngân hàng phát hành nhận được thông báo từ chối thanh toán bằng văn bản của người yêu cầu mở LC kèm theo thông báo bác khước hàng hoá của cơ quan kiểm tra. Trong trường hợp này, ngân hàng phát hành sẽ thông báo cho người hưởng biết lý do không thanh toán hoặc không chấp nhận hối phiếu; bản sao thông báo từ chối thanh toán của người yêu cầu mở LC và bản sao thông báo bác khước của cơ quan kiểm tra sẽ được gửi theo sau theo đường bưu điện.
Giải pháp 2 :
LC do ngân hàng nước ngoài phát hành sẽ có 3 môc thời gian thay vì hai như LC thông thường, bao gồm: ngày giao hàng chậm nhất (latest shipment date), ngày chấm dứt hiệu lực (expiry date). Ví dụ, ngày giao hàng chậm nhất 15/8/200... ngày xuất trình chứng từ chậm nhất: 30/8/200...và ngày chấm dứt hiệu lực sẽ là 29/9/200... Như vậy, người thụ hưởng có 15 ngày sau ngày xếp hàng để chuẩn bị xuất trình chứng từ và người mở LC có 30 ngày để làm thủ tục kiểm tra với cơ quan chức năng. Tương tự như giải pháp 1, ngân hàng phát hành LC khi nhận được bộ chứng từ phù hợp với LC sẽ giao chứng từ cho người yêu cẩu mở LC để làm thủ tục kiểm tra mà tạm thời không pahỉ thực hiện thanh toán hoặc chấp nhận hối phiếu (đối với LC chấp nhận). Ngân hàng phát hành LC sẽ thực hiện thanh toán hoặc chấp nhận hối phiếu khi một trong hai trường hợp sau đây xảy ra, tuỳ theo trường hợp nào xảy ra trước:
(a) Người yêu cầu mở LC thông báo bằng văn bản cho ngân hàng phát hành rằng nhàng hoá đã được cơ quan kiểm tra của chính phủ chấp thuận cho nhập vào nước sở tại; hoặc
(b) Đến ngày chấm dứt hiệu lực của LC, tức là ngày 29/9/200...
Ngân hàng phát hành LC sẽ được miễn trách nhiệm thanh toán/chấp nhận hối phiếu nếu trước ngày chấm dứt hiệu lực LC, ngân hàng phát hành nhận được thông báo bằng văn bản của người yêu cầu mở LC kèm theo thông báo bác khước hàng hoá của cơ quan kiểm tra.
Với những LC có điều kiện thanh toán "fair play" như trên, người yêu cầu mở LC có thời gian hợp lý để cơ quan chức năng thực hiện kiểm tra hàng hoá trước khi trả tiền/chấp nhận trả tiền, trong khi người thụ hưởng lại có thể được trả tiền trong khoảng thời gian được xác định trước nếu hàng hoá không bọ cơ quan kiểm tra bác khước. Đối với LC chấp nhận (trả chậm), hối phiếu được ngân hàng phát hành chấp nhận có thể được ngân hàng phục vụ người thụ hưởng đồng ý chiết khấu. So với điều kiện thanh toán của LC do ABC bank phát hành, giải pháp và điều kiện thanh toán do chúng tôi đề xuất có thể giúp hạn chế rủi ro cho nhà xuất khẩu Việt Nam và với LC này, ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu sẽ sẵn sàng tài trợ cho nhà xuất khẩu thu mua hàng để thực hiện LC và cũng sẽ sẵn sàng thực hiện chiết khấu hối phiếu đã được ngân hàng phát hành LC chấp nhận.
Chúng tôi tin rằng những giải pháp nghiệp vụ trên đây nếu được áp dụng sẽ giúp các nhà xuất khẩu thuỷ sản Việt nam hạn chế rủi ro trong thanh toán và có thể tận dụng những cơ hội tài chính từ LC như vay vốn ngân hàng để thu mua hàng xuất khẩu, thực hiện chiết khấu chứng từ và phần nào giải quyết những vướng mắc giữa nhà xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam với các nhà nhập khẩu tại các thị trường Bắc Mỹ và EU trong những giao dịch thanh toán bằng LC ./.
P/S: Bài viết này đã được đăng trên TCNH năm 2003. Tuy nhiên, nhận thấy rằng bài viết này trong chừng mực nào đó vẫn còn có giá trị mang tính thời sự và thật sự hữu ích đối với các nhà xuất khẩu thuỷ sản sang các thị trường Bắc Mỹ và EU, người viết xin được post lên blog của mình để bạn đọc quan tâm tham khảo.

Discussion on the Term "Negotiation" in LC Transactions - Bàn về thuật ngữ “negotiation” trong giao dịch thư tín dụng

Bàn về thuật ngữ “negotiation” trong giao dịch thư tín dụng

Thuật ngữ “negotiation” được đề cập tại Điều 2, Điều 9(a)(iv) và được định nghĩa tại Điều 10(b)(iv) UCP 500. Tuy nhiên, dường như nhiều nhà ngân hàng và các bên tham gia giao dịch thư tín dụng (LC) không hiểu rõ thuật ngữ này hoặc xem nó như một thuật ngữ khó hiểu, do vậy, không sử dụng nó hoặc sử dụng nó một cách lệch lạc. Hơn mười hai năm quan kể từ khi UCP 500 có hiệu lực áp dụng (1994), những người thực hành LC và các chuyên gia ICC cả phương Tây lẫn phương Đông đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực để tranh luận, bàn thảo về cách hiểu và sử dụng thuật ngữ “negotiation” như thế nào cho đúng và câu chuyện thực sự vẫn chưa đến hồi kết thúc. Do vậy, thuật ngữ “negotiation” là một trong số mười hai vấn đề được NHóm Dự thảo UCP 600 đưa ra Uỷ ban Ngân hàng ICC xem xét sửa đổi lần này. Dự kiến UCP 600 sẽ được thông qua trong năm 2006 và có hiệu lực áp dụng vào năm 2007 nhưng từ nay cho đến khi UCP 600 chính thức có hiệu lực, nội dung dự thảo vẫn được giữ kín và chỉ có những chuyên gia ICC mới biết liệu thuật ngữ “negotiation” sẽ được loại bỏ khỏi UCP hay được giữ lại với một định nghĩa rõ ràng hơn. Trong bài viết này, người viết xin được lạm bàn đôi điều về thuật ngữ “negotiation” trong giao dịch LC.

Negotiation nghĩa là gì ?
Điều 10(b)(ii) UCP 500 định nghĩa như sau: “Negotiations means the giving of the value for Draft(s) and/or document(s) by the bank authorised to negotiate”. Bản tiếng Việt Trường Đại học Ngoại thương (Nhà xuất bản Giáo dục) chuyển dịch: “Chiết khấu có nghĩa là sự định giá và trả tiền hối phiếu và/hoặc chứng từ bởi một ngân hàng được uỷ quyền thực hiện”. Như vậy, theo bản dịch trên, “negotiation” được hiểu là chiết khấu” (discounting). Cụm từ “giving of the value” đã được người dịch chuyển nghĩa là “sự định giá và trả tiền” rất khéo léo và phù hợp với nghĩa “chiết khấu”.
Đôi khi trong một số bản dịch khác hoặc trong các sách viết về thanh toán quốc tế, thuật ngữ “negotiation” được dịch là thương lượng, theo đó các từ liên quan như “negotiating bank” được dịch là “ngân hàng thương lượng”, “freely negotiable” là “có thể thương lượng tự do” … Thậm chí ồn có cả một bài viết phân biệt sự khác nhau giữa “thương lượng” và “chiết khấu”. Tác giả bài viết giải thích sự khác nhau giữa hai từ này đại ý như sau: “thương lượng nghĩa là mua lại hối phiếu trả ngay và trả tiền cho người hưởng lợi có khấu trừ tiền lãi chuyển tiếp (transit interest), còn chiết khấu là mua hối phiếu kỳ hạn ký phát theo LC trả chậm.
Trong bài viết này người viết không quan tâm “negotiation” nghĩa là gì trong tiếng Việt (bởi ngôn ngữ là võ đoán) và cũng không có ý định phân tích xem thử nó được hiểu và sử dụng như thế nào. Rất may rằng mặc dù tác giả gọi là “thương lượng” nhưng về bản chất, hành động “thương lượng” mà tác giả mô tả trên đây cũng không khác với hành động “chiết khấu” như theo đa số những người thực hành LC ở Việt Nam hiểu và sử dụng. Căn cứ hành động được mô tả, người viết có thể tạm thời kết luận rằng khái niệm “thương lượng” và “chiết khấu” mặc dù khác nhau về tên gọi nhưng cùng ám chỉ một hành động, đó là “chiết khấu”.
Negotiation nghĩa là chiết khấu ?
Nếu như thuật ngữ “negotiation được tất cả những người thực hành LC ở những khu vực khác nhau trên thế giới hiểu theo một nghĩa thống nhất là “chiết khấu”, tức là trả tiền (có khấu trừ tiền lãi) cho người ký phát hối phiếu và/hoặc người chân thực cầm giữ hối phiếu trong tay (những) hối phiếu do người hưởng lợi ký phát và/hoặc (các) chứng từ xuất trình theo điều kiện LC thì đã chẳng có những chuyện rắc rối xung quanh nó. Theo ý kiến của hầu hết các chuyên gia, cụm từ “giving of the value” hàm nghĩa quá rộng, bất cứ sự trả tiền hoặc chấp nhận hay cam kết trả tiền đều cấu thành hành động “giving of the value”, do đó, “negotiation” có thể được hiểu và sử dụng cho những hành động sau đây: (i) trả tiền có truy đòi theo LC trả ngay (paying an amount with recourse under sight LC); (ii) trả tiền miễn truy đòi (paying an amount withou recours); (iii) chiết khấu (trả tiền có khấu trừ lãi – paying an amount with deduction of interest); hoặc (iv) hứa sẽ trả tiền khi đáo hạn (a promise to pay at maturity) …
Chẳng bao lâu sau khi UCP có hiệu lực, Uỷ ban Ngân hàng ICC cũng kịp thời nhận ra rằng hàm ý quá rộng của cụm từ “giving of the value” đã khiến thuật ngữ “negotiation” trở nên khó hiểu, do vậy, đã ra văn bản hướng dẫn (ICC Position Paper No. 2) giải thích cụm từ “giving of the value”, theo đó cụm từ này được hiểu như sau: (i) thực hiện thanh toán ngay (making immediate payment) bằng tiền mặt, séc hoặc bằng chuyển tiền thông qua hệ thống thanh toán bù trừ hoặc ghi có tài khoản hoặc (ii) cam kết nghĩa vụ trả tiền (undertaking an obligation to make payment).
Thực tế cho thấy giải thích trên của Uỷ ban Ngân hàng ICC cũng chẳng làm rõ hơn ý nghĩa của thuật ngữ “negotiation”. Do vậy, những người thực hành LC vẫn tiếp tục hiểu và sử dụng “negotiation” theo cách riêng của mình, thậm chí còn sử dụng nó một cách méo mó. Chẳng hạn như một số ngân hàng Nhật có thói quen sử dụng hình thức “negotiation” được gọi là “PP Negotiation” hay “Post Payment Negotiation” (tạm dịch: chiết khấu trả tiền sau). Theo hình thức “negotiation” này, các ngân hàng được chỉ định theo LC, theo thoả thuận với người hưởng lợi, thực hiện kiểm tra chứng từ và cam kết trả tiền cho người hưởng lợi khi nhận được tiền thanh toán từ ngân hàng phát hành. Ngân hàng được chỉ định có quyền huỷ bỏ cam kết trả tiền nếu không nhận được tiền thanh toán từ ngân hàng phát hành.
Reinhard Langerich, thành viên Uỷ ban Ngân hàng ICC, than phiền rằng “negotiation” đã được hiểu và sử dụng theo nhiều cách khác nhau, do vậy, khó có thể đạt được một cách hiểu chúng được.
Nói về sự khác nhau trong cách hiểu thuật ngữ “negotiation” giữa những người thực hành LC ở phương Đông và những người thực hành LC ở phương Tây, T.O Lee, một chuyên gia LC rất nổi tiếng, đồng thời là thành viên của Nhóm Tư vấn sửa đổi UCP 500 cho rằng thật khó đưa ra được một định nghĩa vừa phù hợp với phương Đông vừa phù hợp với phương Tây. T.O Lee ví von rằng sự khác biệt giữa phương Đông và phương Tây cũng tương tự như sự khác biệt trong lĩnh vực triết học giữa phương Tây và phương Đông, một bên (phương Tây) tin vào sự tồn tại của Chúa còn bên kia (phương Đông) có thể không tin vào điều đó.
Dường như khi ví von như thế T.O Lee có liên tưởng đến bài thơ nổi tiếng của thi hào Anh Rudyard Kippling “The Ballad of the East and the West”, được bắt đầu bằng câu: “Oh, East is East, and West is West, and never the twain shall meet” (Ô, Đông là Đông và Tây là Tây, và cả hai sẽ chẳng bao giờ gặp nhau).

Thuật ngữ “negotiation” sẽ bị loại bỏ khỏi UCP ?
Trong quá trình ự thảo UCP 600 thuật ngữ “negotiation” đã được các chuyên gia ICC tranh luận gay gắt. Có người đề nghị loại bỏ “negotiation” khỏi UCP như Ole Malmqvist, Reinhard Langerich … những cũng có người kiên định với quan điểm cần phải giữ lại như John Dolan, T.O Lee ….
Malmqvist, thành viên của Nhóm Dự thảo trả lời phỏng vấn của DCInsight gần đây vẫn kiên định với quan điểm nên loại bỏ “negotiation” khỏi UCP 600. “Tôi đang tìm ai đó có thể giải thích cho tôi sự khác nhau giữa payment (trả tiền) và negotiation (chiết khấu)”, Malmqvist nói.
Reinhard Langerich thì cho rằng “negotiation” chẳng có lợi đối với người hưởng lợi. “Tôi tin rằng bằng cách loại bỏ “negotiation” … chúng ta sẽ làm cho LC trở thanh một công cụ đáng tin cậy hơn”, Langerich nói.
John F. Dolan, Giáo sư Luật nổi tiếng tại Wayne State University lý giải lý do vì sao chúng ta vẫn cần LC cho phép chiết khấu (negotiation LC), Dolan nói: “Về lý thuyết, LC cho phép chiết khấu yêu cầu ngân hàng chiết khấu thực hiện chiết khấu hối phiếu của người hưởng lợi miễn truy đòi. Với LC cho phép chiết khấu, người hưởng lợi sẽ được trả tiền nhanh hơn và anh ta có thể lựa chọn ngân hàng nào có điều kiện chiết khấu ưu đãi hơn để chiết khấu”.
T.O Lee phản đối kịch liệt quan điểm loại bỏ “negotiation” khỏi UCP 600. Lý giải cho quan điểm của mình, T.O Lee cho rằng ở các nước phương Tây như Mỹ, Canada, Châu Âu … việc sử dụng LC trong thanh toán ngày càng giảm dần, trong khi ở Châu Á và Trung Đông LC vẫn là phương thức thanh toán chủ yếu trong mua bán ngoại thương.
Nếu như UCP 600 vẫn không giải quyết được vấn đề “negotiation” chắc chắn các chuyên gia LC sẽ vẫn còn tiếp tục tranh cải và chắc chắc các nhà ngân hàng và các bên tham gia giao dịch LC sẽ tiếp tục hiểu và sử dụng “negotiation” theo cách hiểu của mình.
Thuật ngữ “negotiation” sẽ bị loại bỏ UCP 600 hay được giữ lại với một định nghĩa rõ ràng hơn là câu hỏi vẫn chưa có câu trả lời. Mặc dù chưa có điều kiện để đọc bản dự thảo cuối cùng UCP 600 nhưng người viết đã có cơ hội tham khảo được các bản góp ý sửa đổi, nhận xét của các chuyên gia và các thành viên Nhóm Dự thảo UCP 600, Uỷ ban Ngân hàng ICC … đối với các bản dự thảo UCP 600 và thấy rằng thuật ngữ “negotiation” chắc chắn sẽ được giữ lại nhưng với một định nghĩa rõ ràng hơn. Nhưng rõ ràng hơn đến mức nào và liệu cộng đồng những người thực hành LC có thể đi đến một cách hiểu chung và sử dụng thống nhất hay không thì phải chờ cho đến khi UCP 600 được thông quan trong năm 2006 này và chính thức có hiệu lực áp dụng vào năm 2007 như dự kiến của Uỷ ban Ngân hàng ICC. Bạn đọc quan tâm và những người thực hành LC hãy kiên nhẫn chờ xem./.
NHĐ
P/S: Bài viết này được đăng trên Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ trước khi UCP 600 được thông qua. Nay UCP 600 đã có hiệu lực áp dụng. Thuật ngữ “negotiation” đã được giữ lại trong UCP 600 với một định nghĩa hoàn toàn mới như sau: “Negotiation means the purchase by the nominated bank of drafts (drawn on a bank other than the nominated bank) and/or documents under a complying presentation, by advancing or agreeing to advance funds to the beneficiary on or before the banking day on which reimbursement is due to the nominated bank”. Để hiểu thêm về thuật ngữ này, mời các bạn đọc thêm bài : “UCP 600 có gì mới ?” (TCNH số 14 7/2006), “UCP 600 trước giờ G” (TCNH số 22 10/2006) và “Bàn về vấn đề chiết khấu trong giao dịch thư tín dụng” (TCNH số 10 5/2007); cả ba bài viết trên đã được post lên blog này tuần tự với các tiêu đề “ UCP 600. What’s new ?”, “UCP 600 before G-hour” và “LC negotiation”.